Phương pháp hành trì kinh Từ Niệm Xứ
Bài tập thứ mười bảy: trong phần nói về phép quán niệm sáu giác quan và sáu loại đối tượng, kinh có nói đến danh từ nội kết. Nguyên tiếng phạn là samyojana, có khi được dịch là kết sử … kết có nghĩa là kết tụ lại thành một khối. Sử có nghĩa là có tác dụng ràng buộc và sai sử.
Nội kết được chia làm nhiều loại. Mê muội, tham ái, sân hận, kiêu mạn và nghi ngờ là năm thứ nội kết nặng nề nhất gọi là năm độn sử. Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến thì ít nặng nề hơn và dễ phá trừ hơn, vì vậy được gọi là năm lợi sử. Khi mắt chạm sắc, tai chạm thanh, mũi chạm hương, lưỡi chạm vị, thân chạm xúc và ý chạm pháp, tuỳ theo cách thức tiếp nhận của tâm ta mà nội kết thành hình hay không thành hình. Khi có người nói nặng với ta, nếu ta có đủ hiểu biết và không cố chấp thì ta không cảm thấy bực tức, và do đó trong tâm ta nội kết không thành hình. Nội kết ấy có bản chất sân hận. Khi ta hiểu lầm một câu nói hay một sự việc thì bản chất của nội kết này là mê muội, và mê muội có thể là chất liệu cho bực tức, kiêu mạn, tham ái và nghi ngờ. Mê muội là chất liệu của mọi nội kết. Tên thật của nó là vô minh (avidya), sự thiếu sáng suốt.
Nội kết thường có tính cách của khổ thọ. Nhưng nội kết có khi cũng có tính cách của lạc thọ. Khi ta tham đắm vào sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, những nội kết có tính chất tham ái được hình thành, và bản chất ban đầu của chúng có thể là những cảm giác dễ chịu. Nhưng vì ta tham đắm cho nên ta bị ràng buộc, và khi những nhu yếu của sự tham muốn không được thoả mãn thì ta lại có những khổ thọ. Từ rượu, thuốc lá, nha phiến, cho đến miếng ngon, bóng sắc, âm nhạc, những lời ngợi khen, v.v… những đối tượng ấy của sáu căn đều có thể tạo ra nội kết trong ta, và những nội kết này có thể bắt đầu bằng những lạc thọ. Đã có nội kết rồi thì bị những nội kết ấy sai sử, bắt đi tìm lại những đối tượng ấy và những lạc thọ ấy. Tình yêu cũng là một loại nội kết, bởi vì trong tình yêu thông thường ta biết có chất liệu của sự đam mê. Trong văn chương tình yêu được gọi là một “bệnh” (lovesickness, bệnh tương tư), có khi là một “tai nạn” (bị tiếng sét tình ái, tomber amoureux, falling in love). Nguyễn Bính nói: “Chao ôi, yêu có ông trời cứu”. Tình yêu có thể được chuyển hoá để tính chất đam mê, ích kỷ và độc tài trong ấy được thay dần bằng khả năng hiểu biết và khả năng đem lại hạnh phúc cho người mình thương, khả năng thương yêu mà không đòi hỏi điều kiện và sự đền trả. Công trình chuyển hoá này cũng là công trình chuyển hoá nội kết.
Những nổi khổ đau trong ta cũng là những nội kết phát sinh từ mê muội, tham ái, sân hận, kiêu mạn và nghi ngờ. Nếu những phiền não này không được chuyển hoá thì những khổ đau kia vẫn còn nguyên vẹn. Trong cuộc sống hàng ngày, những hạt giống khổ đau có thể được liên tục gieo trồng vào tâm thức ta do chính bản thân chúng ta, với hay không với sự hợp tác của người khác.
Người khác có thể nói hoặc làm những điều có khả năng gây nên nội kết nơi ta, nhưng nếu ta có sẵn hạt giống hiểu biết, rộng lượng và từ bi thì những điều họ nói và làm không thể gây nội kết nơi ta được. Vì vậy rốt cuộc tất cả đều tuỳ thuộc nơi cách thức ta tiếp nhận những gì xảy ta trong đời sống hàng ngày. Nếu ta vững chãi, thảnh thơi, có hiểu biết và từ bi, và nhất là không vướng vào ngã chấp, thì những điều người khác làm người khác nói sẽ không đủ tác dụng gây nội kết trong ta.
Sống theo phương pháp của kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm, ta tập ý thức về sự phát sinh, tồn tại và chuyển hoá của những nội kết: “Vị ấy có ý thức về những nội kết chưa phát sinh nay đang phát sinh, ý thức về những nội kết đã phát sinh nay đang được khử diệt, ý thức về những nội kết đã khử diệt và không còn tái sinh nữa” (tụng bản I). Trong đời sống hàng ngày, ta thực tập chánh niệm để nhận diện được những nội kết mới phát sinh để tìm cách chuyển hoá chúng. Nếu ta cứ để cho các nội kết cứ tồn tại và lớn mạnh trong ta thì có lúc ta sẽ bị chúng trấn ngự. Lúc ấy công việc chuyển hoá sẽ trở nên rất khó khăn và cuộc đời của chúng ta sẽ rất đau khổ. Một nội kết có chất sân hận hoặc tham đắm hoặc nghi ngờ … khi mới phát sinh cần được ta lưu ý tới để mà chuyển hoá. Khi mới phát sinh, hạt giống nội kết còn yếu, công việc chuyển hoá còn chưa khó khăn. Trong lúc sống chung, ta nên giúp nhau để chuyển hoá nội kết của nhau, để có thể ngăn ngừa khổ đau và bảo vệ hạnh phúc cho nhau. Bằng cách thực tập hiểu biết và xử dụng ngôn ngữ từ ái, chúng ta có thể giúp cho nhau rất nhiều. Khi ta sống chung, hạnh phúc không còn là một vấn đề cá nhân nữa: nếu người kia không có hạnh phúc thì ta cũng khó có hạnh phúc. Vì vậy hoá giải nội kết nơi người kia tức là tạo hạnh phúc cho chính mình vậy. Vợ có thể gây nội kết cho chồng, chồng có thể gây nội kết cho vợ, và nếu những nội kết ấy tiếp tục được gây cho nhau thì một ngày nọ hạnh phúc sẽ không còn. Vì thế mỗi khi có một nội kết mới gây, người vợ phải biết rằng mình có nội kết mới gây. Người ấy không nên bỏ qua. người ấy phải có thì giờ quán chiếu về nội kết của mình. Người ấy có thể nhờ chồng giúp đỡ để chuyển hoá nội kết: “anh ơi, em có nội kết, anh hãy giúp em”. Điều này có thể làm được, khi tâm trạng hai người nhẹ nhàng chưa có nhiều nội kết. Vợ hành xử như thế mà chồng cũng hành xử như thế.
Như ta đã biết, nội kết nào cũng có chất liệu vô minh. Nếu quán chiếu và thấy được tính chất vô minh trong cách thức mình tiếp nhận nội kết hoặc tính chất vô minh trong cách thức người kia gây ra nội kết thì ta có thể chuyển hoá được nội kết. Trong các bài tập thứ mười hai (quán chiếu về gốc rễ và bản chất của cảm thọ), thứ mười ba (quán chiếu về tâm tham dục), thứ mười bốn (quán chiếu về cái giận) và thứ mười lăm (quán từ bi), chúng ta đã thấy rằng khi rọi ánh sáng duyên sinh vào tâm ý và sự việc thì ta thấy được gốc rễ và tự tính của những tâm ý và sự việc ấy và ta chuyển hoá được chúng và thoát khỏi những cảm thọ khổ đau mà chúng đã gây nên. Bản chất của thiền quán là nhìn và thấy được tự tính của các pháp. Sự chuyển hoá của nội kết là kết quả của cái thấy ấy.
Bài tập thứ mười tám: bài tập này nhằm tiếp xúc và chuyển hoá những nội kết bị chôn vùi và đè nén trong ta. Tiềm ẩn trong tâm thức ta có thể có nội kết của những ham muốn, giận hờn, sợ hãi, mặc cảm và hối hận bị đè nén lâu ngày. Những nội kết ấy tuy bị đè nén nhưng luôn luôn tìm cách biểu lộ ra trong cảm giác, tư tưởng, ngôn ngữ và hành động của ta. Ta có thể quán chiếu những nội kết của ta một cách dễ dàng hơn khi các nội kết này có biểu hiện thành cảm thọ một cách dễ dàng trên mặt phẳng ý thức. Nhưng nếu nội kết bị đè nén, chúng không biểu hiện được một cách gián tiếp trên tư tưởng, cảm thọ, ngôn ngữ và hành động của chúng ta thôi, vì vậy chúng ta không biết được sự có mặt của chúng ta, trong khi ấy chúng vẫn âm thầm sai sử ta và làm cho ta khổ sở. Đạo Bụt có danh từ tuỳ miên (anusaya) có hàm chứa nghĩa lý này. Tuỳ là đi theo, miên là nằm ngủ. Những nội kết này nằm ngủ trong chiều sâu tâm thức ta nhưng vẫn theo sát ta và sai sử ta một cách khó nhận biết.
Cái gì đè nén chúng và không cho chúng biểu hiện? Đó là ý thức và lương tâm của ta. Ta biết rằng những ham muốn ấy, những giận hờn ấy không thể được xã hội, hoàn cảnh và chính lương tâm ta chấp nhận, cho nên trong đời sống hàng ngày ta đã tìm cách dồn ép chúng xuống, đẩy chúng vào một vùng xa xôi của tâm thức để ta có thể lãng quên. Tâm lý học hiện đại gọi chúng là những ẩn ức (refoulé). Con người thường có khuynh hướng trốn tránh khổ đau, và trong ta có những cơ chế tự vệ (mécanesme de défense), chính những cơ chế này đẩy những khổ đau tâm lý, những mâu thuẩn xung đột (conflits) và những xung động không được xã hội và lương tâm chấp nhận (impulsions inacceptable) vào vùng vô thức để ta có thể tạm thời yên ổn với ta. Nhưng những ẩn ức lâu ngày này luôn luôn tìm cách phát hiện, và sản phẩm chung kết (produit terminal) của các cơ chế tự vệ đó là những câu nói, những hình ảnh tâm ý và những cách hành xử có tính cách bất thường không thích hợp với xã hội, và sau cùng là những triệu chứng của những bệnh tâm thần.
Đương sự có thể biết ngôn ngữ, tư tưởng và cách hành xử của mình là có hại, nhưng vẫn không làm gì hơn được vì những thể lực kia quá mạnh, mình không thể kiểm soát nổi.
Ta lấy ví dụ một cô gái một mặt muốn đi lấy chồng, một mặt lại không muốn bỏ mẹ ở nhà sống một mình. Cô gái có hiếu, có thương mẹ thật, nhưng trong cô cũng có ước mong được sống cuộc sống lứa đôi với người cô yêu. Tuy nhiên cô không chịu được ý tưởng cô là một người con bất hiếu, một người con đành đoạn bỏ mẹ mà đi khi mẹ đang ốm yếu và cần người phụng dưỡng. Hai thứ ước muốn và tình cảm trở nên hai lực lượng xung động và gây mâu thuẩn xung đột trong cô. Cơ chế tự vệ của cô đẩy những khổ đau ấy vào vô thức, và cô nghĩ rằng cô đã bỏ ý định lấy chồng để dồn hết cuộc đời mình mà phụng sự cho mẹ. Tuy nhiên ước muốn lấy chồng của cô vẫn còn đó, và xung đột tâm lý vẫn còn là nội kết trong cô, vì vậy nội kết đã tìm cách phát hiện. Cô trở nên bực bội, gắt gỏng, cô nói những câu bâng quơ mà chính cô cũng không hiểu, cô mơ thấy những điều mà chính cô cũng không hiểu. Cô không có hạnh phúc, và bà mẹ cô vì vậy cũng không có hạnh phúc. Nỗi lo sợ con gái bỏ mình đi lấy chồng đã ám ảnh bà mẹ lâu ngày mà chính tâm lý ấy đã tự động làm cho bà đột nhiên trở thành yếu đuối và càng lúc càng thêm yếu đuối mà bà không biết. Nghe con gái nói sẽ không đi lấy chồng nữa mà chỉ ở lại sống mãi với mình, bà rất vui, nhưng trong thâm tâm bà, bà cũng khổ đau vì sự việc cô con gái không được đi lấy chồng. Mâu thuẩn đó trở thành nội kết cũng làm cho bà đau khổ mà bà không biết, và vì vậy bà cũng trở nên bực bội, gắt gỏng, nói những câu mà chính bà cũng không hiểu, mơ thấy những điều và làm những cử chỉ mà chính bà cũng không hiểu tại sao. Cố nhiên bà không có hạnh phúc, mà con gái bà vì vậy lại càng không có hạnh phúc. Sự hy sinh của cô gái không đem tới hạnh phúc cho bà mà còn làm cho cả hai khổ đau. Khổ đau có thể kéo dài mãi mãi.
Phương pháp trị liệu khổ đau do những nội kết bị dồn nén gây ra là phải quán chiếu các nội kết ấy. Mà muốn chiếu chúng, trước tiên ta phải tìm cách đưa chúng vào được trong vùng ý thức trước đã.
Phương pháp của kinh Lĩnh Vực Quán Niệm là thực tập hơi thở ý thức để nhận diện những cảm thọ, tư tưởng, lời nói và hành động của mình, nhất là những cảm thọ, tư tưởng, lời nói và hành động phát khởi một cách tự động để phản ứng lại những sự việc đang xảy ra. Những phản ứng này có thể có nguồn gốc từ các nội kết bị chôn dấu. Ý thức được những gì ta cảm, ta nghĩ, ta nói và ta làm ấy, ta hỏi: “tại sao ta thấy khó chịu khi nghe giọng nói đó?” “tại sao ta lại liên tưởng đến mẹ ta khi ta thấy người con gái kia?” “tại sao ta vừa nói với ông ta câu nói đó?” “tại sao ta không thích nhân vật ấy trong truyện phim?” “ông ta hao hao giống ai mà ta đã ghét trong quá khứ?”
Nếu ta thực tập như thế thì ta sẽ khám phá được gốc rễ của những cảm thọ, tư tưởng, lời nói và hành động của ta và ta từ từ đưa được những nội kết bị chôn vùi vào vùng ý thức. Trong lúc thiền toạ, nhờ ta đóng cửa các giác quan để đừng tiếp tục nghe, thấy và suy luận cho nên những nội kết bị chôn vùi lại có dịp xuất hiện trong ta dưới hình thức những cảm thọ hoặc những hình bóng hiện ra trong ý thức. Có người nghĩ đó là bị ma phá. ‘Ma’ ở đây là những tuỳ miên trong tiềm thức đang được phát hiện. Ban đầu có thể đó chỉ là một cảm giác lo âu, sợ hãi hay khó chịu mà ta không thấy được duyên cớ. Nhưng ta hãy thắp sáng chánh niệm và sẵn sàng tiếp nhận cảm giác ấy. Khi cảm thọ ấy bắt đầu lộ diện và tăng thêm cường độ, có thể ta sẽ cảm thấy không được an lạc và thoải mái và do đó ta không muốn tiếp tục tiếp xúc với nó nữa. Ta muốn dời sự chú tâm sang một đối tượng quán chiếu khác. Hoặc ta muốn chấm dứt thiền toạ, lấy cớ rằng ta hơi mỏi mệt, hoặc hơi buồn ngủ, để lúc khác sẽ tiếp tục, v.v… Đó là hiện tượng mà tâm lý học bây giờ gọi là đối kháng (résistance). Âm thầm, ta sợ đưa những niềm đau bị chôn dấu kia vào vùng ý thức, bởi chúng sẽ làm ta khổ đau. Có những người thực tập thiền toạ rất nhiều giờ trong một ngày, nhưng không thực sự dám đối diện và đón mời các niềm đau kia lên ý thức. Họ tự đánh lừa một cách vô thức rằng những vấn đề đó không quan trọng, và vì vậy họ chú tâm sang những chủ đề thiền quán khác: vô thường, vô ngã, tiếng vỗ của một bàn tay, chủ đích của tổ Bồ Đề Đạt Ma từ phương Tây lại . . . Cố nhiên những chủ đề này là quan trọng, nhưng chúng phải được cứu xét trong ánh sáng của những vấn đề thật (les vrais problèmes) của ta thì chúng mới thật là những chủ đề đích thực của thiền quán.
Hành giả biết rằng phương pháp quán chiếu của đạo Bụt không phải là phương pháp đàn áp cảm thọ mà là phương pháp bảo trợ cảm thọ với tinh thần từ hoà và bất bạo động. Hành giả biết rằng chừng nào chánh niệm của mình còn được duy trì thì mình còn không bị cuốn theo hoặc đắm chìm trong cảm thọ hoặc trong những xung đột nội tâm. Chánh niệm được hành giả nuôi dưỡng bằng hơi thở có ý thức, sẵn sàng đón nhận những nội kết và những xung đột ấy biểu hiện lên trên mặt phẳng ý thức, đón nhận một cách từ ái như một bà mẹ sẵn sàng ôm con vào lòng với tất cả tình thương. “ Chánh niệm có mặt và ta biết ta có đủ sức tiếp xúc với nội kết trong ta”. Trong hoàn cảnh ấy, nội kết sẽ phát hiện dưới hình thức những cảm thọ và những hình ảnh trong tâm ý mà ta phải nhận diện và tiếp xúc thật sâu sắc và thật đầy đủ trong chánh niệm ta. Ta không trách móc, không phê phán, không tự chê trách ta vì đã có những cảm thọ ấy hoặc những hình ảnh ấy. Ta chỉ nhận diện, chấp nhận và quán chiếu chúng để thấy được cội nguồn và tự tánh của chúng. Nếu cần đau xót ta cứ đau xót, nếu cần buồn khổ ta cứ buồn khổ, nếu cần giận dữ ta cứ giận dữ, tuy nhiên với chánh niệm có mặt, ta đã không đánh mất ta trong những đau xót, buồn và giận dữ ấy mà còn có thể làm an tịnh được chúng và do quán chiếu cuối cùng ta chuyển hoá được chúng. Trốn chạy chúng thì không có cơ hội tiếp xúc và chuyển hoá chúng.
Phương pháp của kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm rất mầu nhiệm ở chỗ hành giả có thể tiếp xúc trực tiếp với cảm thọ của mình và có thể chuẩn bị để đón mời cảm thọ ấy xuất hiện trong vùng ý thức nếu cảm thọ ấy còn đang là những khối nội kết bị đè nén và chỉ tìm cách phát hiện gián tiếp trên tư tưởng, cảm thọ, ngôn ngữ và hành động của ta mà thôi. Hành giả có thể tự trị liệu cho tâm lý mình mà không cần đến một trị liệu gia tâm lý. Hành giả cũng có thể nhờ thầy nhờ bạn giúp đỡ mình và khai thị cho mình, bởi vì họ là những người cùng tu và thế nào họ cũng có những nhận xét về những lời nói và cách hành xử của mình trong đời sống hàng ngày. Ngày xưa Bụt được ca ngợi là một vị y vương, vua của các thầy thuốc, vì người đã trị tâm bệnh cho hàng ngàn người, trong đó có vua A Xà Thế của nước Ma Kiệt Đà. Người thực tập thiền quán có thể học phương pháp chữa trị từ đạo Bụt để chữa trị cho mình và cho kẻ khác. Trong xã hội mới, nhiều người vì sống thiếu chánh niệm và vì không biết hoá giải nội kết cho nên lâu ngày những nội kết này trở nên sâu nặng, do đó tinh thần trở nên giao động, bất an và hư nhược. Những bất an (anxiety) và hư nhược (depression) ấy được biểu hiện trong cách nói năng và hành xử hàng ngày. Cách nói năng và hành xử ấy càng ngày càng có tính cách không thích ứng với xã hội, vì vậy những người kia bắt đầu gặp những khó khăn về mặt giao tế, làm ăn và cộng tác với kẻ khác. Những khó khăn này làm cho họ thất bại thêm lên trong xã hội và cũng làm cho nội kết của họ càng lớn và cách hành xử của họ càng ít thích ứng với xã hội. Cuối cùng họ sẽ mất sở làm, mất bạn, ly dị, v.v… và rút lui về trong thế giới của mặc cảm chủ quan của mình.
Nếu biết sống tỉnh thức trong từng giây phút, hành giả sẽ chứng kiến được những gì đang xảy ra trong cảm thọ và tri giác trong giờ phút hiện tại, và sẽ không để cho nội kết trở nên sâu dày trong tâm thức. Nếu biết quán chiếu cảm thọ, hành giả cũng có thể tìm thấy cội nguồn của những nội kết lâu ngày để chuyển hoá chúng.