Đạo Phật sống giữa đời
Ngô Nhân Dụng
Những đệ tử ở gần Thiền sư Nhất Hạnh thấy ông mang một hạnh nguyện vững như núi đá. Đối với hàng trăm ngàn người đã tìm ông như nơi an trú tâm linh, ông là một bóng cây tươi mát. Hàng chục triệu người trong thế giới gặp ông qua những cuốn sách, lắng nghe ông nói thứ ngôn ngữ từ ái như nước suối “trong nguồn chẩy ra.” Nhưng nhiều người ở xa lại chỉ nhìn thấy trong những lời nói và hành động của ông những hệ quả hoặc ý nghĩa chính trị làm họ bất bình. Ông được nhiều người khắp nơi ngưỡng mộ, nhưng cũng nhiều ngườiViệt Nam chống đối. Thiền sư Nhất Hạnh trở thành một tiêu điểm cho nhiều người nhìn vào và nổi lòng hâm mộ hoặc oán giận. Nhiều người muốn giữ thái độ bình thản trung dung, không yêu không ghét đối với ông, nhưng vẫn để tâm quan sát, theo dõi, phân tích và bầy tỏ ý kiến về ông, phê phán những cử chỉ, lời nói của ông, từ một bộ áo ông mặc khi hành lễ đến cách ông viết một bức thư gửi chung mọi người.
Người ta nhìn ông như thể ông là một cô dâu mới về nhà chồng hay một ứng cử viên vào một chức vụ chính trị. Rất ít người nhìn ông với con mắt vô ý, vô tư, bình tâm bất động. Cái nghiệp đó, ông tạo ra và thời thế đất nước tạo ra. Nghiệp chung của dân tộc Việt Nam và nghiệp riêng một một nhà tu dấn thân không thể tách rời nhau được. Có lẽ phải chờ một vài thế hệ nữa, người ta mới tạm đồng ý với nhau về hành trạng của Thích Nhất Hạnh và những đóng góp của ông cho đạo Phật ở nước ta và trong nhân loại.
Thích Nhất Hạnh được nhiều người nước ngoài hâm mộ, sách của ông được dịch ra dăm chục thứ tiếng khác nhau, những khoá giảng của ông thu hút năm, mười ngàn người ở Âu châu, Mỹ châu, trước khi ông được hàng chục ngàn đồng bào tiếp đón khi trở về Việt Nam trong những năm 2005 và 2007, sau khi phải sống xa quê hương 40 năm. Những năm trước đó, nhiều triệu người Việt ở trong nước chỉ biết ông qua sách vở. Trong những thập niên 1970, 80 những tác phẩm của ông mới xuất bản ở nước ngoài đã được gửi ngay về trong nước, nhiều Phật tử đã chụp lại cả cuốn sách hoặc chép tay những bài thi kệ để truyền tay nhau đọc. Họ sống hạnh phúc hơn trong một xã hội đang thay đổi.
Thích Nhất Hạnh thể nghiệm và trình bầy phương cách tu tập giáo lý của Đức Phật sao cho thích hợp cho những người sống ở đời nay, những phép tu được coi là canh tân, có khi gọi là cách mạng. Nhiều hành động của ông mới quá, nhiều người không thể theo. Tại một khoá tu quán niệm với các Phật tử ở Mỹ châu trong thập niên 1960, một đệ tử đã xin phép được “hugging” với ông, đó là lối chào hỏi bằng cách vòng tay ôm nhẹ vai nhau, khi gặp gỡ hay khi từ giã. Nhất Hạnh đã đồng ý cho người phụ nữ này hug thầy, nhân đó bầy cho các thiền sinh ngoại quốc phương pháp hugging trong chánh niệm như thế nào. Mấy tháng sau, ông đang đi cùng các tăng sĩ Nam Tông ở thành phố Vientiane tình cờ gặp lại người nữ đệ tử Mỹ đó; bà ta hớn hở tiến tới “hug” thầy, trước những đôi mắt ngạc nhiên của chư tôn đức người Lào, và chính ông thầy người Việt cũng lúng túng, bỡ ngỡ.
Ông không ngần ngại khuyến khích các ni sư người Thái Lan sau khi tu tập ở Làng Mai trở về nước tái lập những tu viện cho nữ giới, sau khi những định chế này đã mai một trong xứ Phật giáo truyền thống phương Nam này. Không biết quý vị lãnh đạo Phật giáo ở các nước Nam Tông sẽ phản ứng ra sao trong vòng nửa thế kỷ sắp tới. Nhất Hạnh cũng làm nhiều người ngạc nhiên vì ngôn ngữ của ông.
Là một người làm thơ, Nhất Hạnh làm sống lại những bài kệ để người Phật tử tâm niệm như một phương pháp tu tập nền tảng. Ông có thể chuyển sang tiếng Việt Nam những bản dịch nhuần nhã các kinh căn bản Bắc tông như kinh Bát Đại Nhân Giác, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Kinh A Di Đà, và những kinh thường phổ biến trong Nam tông như Kinh Người Biết Sống Một Mình, kinh Quán Niệm Hơi Thở, kinh Tứ Niệm Xứ. Nhờ làm chủ ngôn ngữ Việt Nam và thấu hiểu ý bản gốc chữ Phạn và Pali hay bản dịch chữ Hán, lời kinh do ông dịch dễ tụng, dễ ghi nhớ. Cũng vì yêu tiếng Việt, ông phục hồi chữ Bụt, là tên gọi danh hiệu Phật trước khi người Việt Nam học chữ Hán. Nhiều người tưởng đó là một việc làm cách mạng, không biết rằng đó là do một thái độ phục cổ. Cũng vậy, khi ông dùng những câu chú phiên âm từ chữ Phạn, “Ga tê, Ga tê, Para Gatê, …” cho gần với bản gốc hơn, thay vì theo bản phiên âm của Huyền Trang đọc theo lối Hán Việt, “Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế …” nhiều người bảo rằng Nhất Hạnh đã cho học trò tụng kinh bằng “tiếng Tây.”
Một người không ngần ngại nói và làm ngược với thói tục, ngay từ thời thanh niên đã bị coi là muốn làm cách mạng trong phương pháp tu hành, nhưng Nhất Hạnh cũng là một người muốn phục hồi lại những truyền thống trong quy củ của thiền môn. Các đệ tử tại các tự viện ở Làng Mai (Pháp), Rừng Phong (Mỹ) hay Bát Nhã (Việt Nam) đều phải theo những thanh quy, giới luật nghiêm ngặt mà Nhất Hạnh đã được các thầy dậy cho từ khi xuất gia năm 15 tuổi. Nhiều quy luật đó bắt đầu thành hình từ các tăng đoàn đầu tiên quy tụ chung quanh Đức Thích Ca. Ngay trong việc gìn giữ thanh quy này, nhiều người coi ông là cách mạng, cũng có người thấy ông rất bảo thủ.
Các tăng ni ở Việt Nam hay các nơi khác trên thế giới đã có thói quen làm chủ nhân một chiếc xe, đứng tên các tài khoản ngân hàng, hoặc dùng điện thoại riêng, dùng email riêng, đã thấy họ không thể tự thay đổi mà chấp nhận lối sống không tư hữu, không ràng buộc vào của cải. Nhưng đó cũng là những thanh quy cổ truyền mà Thích Nhất Hạnh muốn phục hồi. Ông trở thành một người mang hình ảnh bảo thủ, đi ngược với “xu thế” của thời đại mới!
Có lẽ trong vài thế hệ nữa người ta có thể đồng ý về một đóng góp đáng kể của Nhất Hạnh cho Phật giáo và cho thế giới là việc tái lập những quy củ thiền môn, nối tiếp bước chân của các ngài Bách Trượng, Lâm Tế, Liễu Quán, vân vân. Nhưng trong lúc ông còn sống, có những quy tắc ông thực hành trong tự viện bị coi là mới quá. Nhiều người thấy các thanh quy này quá tân tiến khi giảm bớt uy quyền của những vị lãnh đạo trong tập thể tăng ni. Vì ông đề cao quy tắc bình đẳng giữa mọi người trong tăng đoàn, dùng những thủ tục quyết định tập thể dân chủ, thực hiện hoà hợp tăng bằng luật lệ chứ không chỉ bằng tình cảm. Nhiều người lại thấy ông bảo vệ nhiều quy tắc bảo thủ quá, khi nghiêm cấm các tăng ni không được sống như những cá nhân độc lập tách rời khỏi tăng thân. Nhưng tất cả các quy luật “mới” hay “cũ” mà Thích Nhất Hạnh áp dụng đều bắt nguồn từ tinh thần giáo luật có từ thời đức Thích Ca tại thế.
Khi người Ấn Độ soạn bản hiến pháp đầu tiên sau quyết định lập quốc năm 1947, người đứng đầu uỷ ban soạn thảo hiến pháp đã nhấn mạnh rằng dân Ấn Độ không cần tìm học tinh thần dân chủ từ các triết gia và các chế độ dân chủ đã thực hiện ở Tây phương. Tập thể đông người đầu tiên trên thế giới sống chung với nhau theo tinh thần dân chủ là tăng đoàn chung quanh đức Phật. Sau khi Phật Thích Ca qua đời, các giáo đoàn họp nhau lại xác định những quy củ, giáo luật, nhiều quy tắc rất tỷ mỉ, tạo thành những tập hợp sống chung theo quy tắc dân chủ sớm nhất của loài người, cũng là những tập thể giử kỷ luật nghiêm cẩn nhất. Chính trong những tăng đoàn đó, họp lại nhiều lần trong mấy trăm năm, người ta đã đặt ra các “quy tắc nghị sự” sớm nhất, như quốc hội các nước đã áp dụng trong mấy thế kỷ gần đây. Ngày nay khi đem áp dụng tinh thần dân chủ đó trong nếp sống tự viện, cùng một lúc vẫn muốn tái lập những kỷ luật mà người tu hành phải theo để thể nhập giáo lý đạo Phật, Thích Nhất Hạnh được nhiều người nhìn là quá cách mạng, đồng thời cũng có người thấy là quá bảo thủ.
Bên cạnh việc hiện đại hoá nếp sống người tu, Thích Nhất Hạnh cũng mang Đạo Phật vào cuộc sống hiện đại cho các Phật tử tại gia. Một tờ báo Phật giáo ở Mỹ nhận xét rằng có mấy đợt những làn sóng đạo Phật truyền vào nước Mỹ. Có những đợt sóng tâm linh Phương Đông đến rất sớm như từ thời Đạo sư Vivekananda. Rồi tới lượt các thiền sư Nhật Bản, các đạo sĩ Ấn Độ, rồi các thầy Tây Tạng. Một đặc điểm của phương pháp tu tập mà Thích Nhất Hạnh đem tới trong đợt sóng mới nhất là ông dậy một đạo Phật để sống giữa cuộc đời, chứ không chỉ dành cho những người sống trong tu viện. Có hai điều thường được ông nhấn mạnh, một là tu tập trong cuộc sống chung, bắt đầu từ đời sống gia đình. Hai là vai trò bình đẳng của nữ giới đối với nam giới, một truyền thống của người Việt Nam không giống các nước khác.
Cho nên nhiều người ngoại quốc coi ông là một đại biểu của truyền thống Phật giáo Việt Nam, mang đạo giải thoát cứu khổ đến với thế giới trong một thời đại với nhiều đau khổ mới. Hình thái của khổ đế thay đổi với lịch sử loài người, Nhất Hạnh đối chứng với những cái khổ mới để tìm trong Phật pháp những phương cách diệt khổ mới. Đó là một đóng góp của ông cho thế giới bây giờ.
Nếu Thiền sư Nhất Hạnh chỉ ngồi yên trong thiền thất và truyền dậy những đệ tử cầu học về cách sống theo Đạo Phật Ngày Nay, thì chắc chỉ có những người yêu mến và kính trọng ông mà không có những dư luận phức tạp về ông. Nhưng ông muốn đưa Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời, đạo Phật là đạo nhập thế, sống ở giữa thế gian. Trong một thế gian phức tạp, đi, đứng giữa cuộc đời sẽ được mọi người nhìn dưới những con mắt phức tạp. Nhiều người yêu mến, kính trọng ông và họ lại muốn những hành động và lời nói của ông phải phù hợp với hình ảnh mà họ đã tạo nên trong đầu. Nhiều người vốn không đồng ý với các việc ông làm cho nên hễ nghe và tin ngay rồi đem loan truyền những lời đồn đãi xấu về ông mà không thấy cần kiểm chứng. Không ai nghe ông thốt một lời nói nào không ái ngữ đối với những người đó. Nhưng cái nghiệp dĩ phiền tạp này sẽ còn theo ông suốt đời. Khi ông trở về Việt Nam gần đây, ông cũng gây nên sóng gió trong dư luận, cũng vì cái nghiệp chung của dân tộc và nghiệp riêng của từng người, trong đó có ông. Trong mươi năm nữa thôi, chắc mọi người sẽ quên các cơn gió bụi mới thổi qua, thế hệ sắp tới sẽ nhìn lại để thấy vào lúc tuổi đã gần 80, một nhà sư người Việt đã cố gắng trở về góp phần của mình nuôi sống lại cuộc sống tâm linh của dân tộc đã bị hao mòn và khô héo từ mấy thế kỷ vừa qua. Sẽ cần vài thế hệ tăng ni và Phật tử tiếp nối công trình đó ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Người ta sẽ nhớ đến ông như một người có đóng góp vào giòng sống tâm linh của nhân loại, nhờ ông đã lớn lên và được nuôi dưỡng trong truyền thống Phật giáo Việt Nam.
(Trích báo Thế Kỷ 21- 2007)