Tài liệu tu học trong buổi tụng giới Chúa Nhật 12 tháng 2, 2012
Vài khái niệm căn bản trong Duy biểu học
Duy Thức hay Duy Biểu?
Thầy Huyền Trang dịch Tam Thập Tụng từ bản tiếng Phạn (Trimsika-Vijnapti matratasiddhi-karika). Trong bản này, có hai chữ Phạn Vijnana và Vijnapti đều được dịch là thức. (Tiền từ Vi có nghĩa là phân biệt, xét đoán, nhận thức). Ngày nay giới học Phật ưa dịch tiếng Vijnapti là biểu biệt. Biểu là biểu hiện ra cho ta thấy. Biệt là nhận thức phân biệt. Ví dụ như cái giận trong tâm, thức hay ngủ ta đều mang hạt giống giận theo nhưng nó chưa biểu hiện. Chỉ khi nào có cơ hội thì nó mới đùng đùng nổi lên, mới biểu hiện. Thức có khả năng biểu hiện nên gọi là biểu. Thức cũng có khả năng phân biệt nên gọi là biệt. Vậy danh từ biểu biệt là danh từ rất hay để dịch từ vijnapti. Thầy Huyền Trang chỉ dịch vijnapti là thức, như vậy thầy đánh mất phần biểu (khả năng biểu hiện). Trong Tam Thập Tụng tiếng Phạn, thầy Thế Thân đã dùng tới 5 lần chữ vijnapti và chỉ dùng chữ vijnana có một lần. Ta thấy rõ thầy Thế Thân để ý tới khiá cạnh biểu. Vì vậy ngày nay chúng ta dùng danh từ Duy Biểu để dịch chữ Vijnaptimatra thay vì Duy Thức, cho gần với tinh thần nguyên bản. (Matra nghĩa là duy nhất, chỉ có nó mà thôi).
Vai trò của các thức
Thông thường chúng ta vẫn nghĩ thức (cái thấy) hay tâm thức là khả năng phân biệt, là tri giác, là hiểu biết, là tưởng tượng; nhưng thật ra khả năng căn bản nhất của tâm thức là "giữ trọn vạn vật để đừng rơi rớt ra ngoài". Nếu khả năng giữ trọn ấy mà không có thì vạn vật sẽ tan rã. Giống như một khối nam châm, thức hút vào nó toàn thể các hạt giống, thức thu góp tất cả các kinh nghiệm để tập họp lại thành một tổng thể hòa điệu nhịp nhàng. Đó là vai trò căn bản của tâm thức. Vì vậy ta có danh từ tàng, nghĩa là kho chứa. Nhưng tâm thức ở đây không chỉ có nghĩa là cái nhà kho mà còn gồm luôn những gì chứa trong kho. Vai trò thứ nhất, vai trò căn bản của tâm thức là giữ gìn, bao trùm, giữ trọn vạn vật lại với nhau. Đây là vai trò của Tàng thức A-lại-gia (Alaya-vijnana). Vai trò thứ hai của tâm thức là ôm chặt lấy và cho rằng cái nhà kho (tàng thức) và đồ chứa trong kho đó là riêng của ta. Phần này của tâm thức có tên là Mạt-na (manas). Mạt-na cũng được gọi là Ý (mentation). Mạt-na luôn luôn níu kéo, tin rằng có một cái ngã cần được nắm giữ. Vai trò thứ ba của tâm thức là nhận thức về đời sống gồm thiên nhiên, thế giới, thân tâm và nhiều thứ khác nữa. Đó là vai trò của thức thứ 6 hay Ý thức (Mano-vijnana và các thức cảm giác (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức). Tóm lại, có 8 tâm thức, cũng gọi là 8 tâm vương, đó là: 6 thức đầu (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý thức); Mạt-na thức và Tàng thức A-lại-gia.
Chủ thể và đối tượng nhận thức.
Có một điều căn bản cần biết là nhận thức luôn luôn bao gồm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Biết thì có chủ thể biết và đối tượng được biết đến. Ý thức luôn luôn phải là ý thức về cái gì. Đó là điều căn bản ta cần biết để bắt đầu mà cũng để thực tập cho tới nơi. Điều này không dễ hiểu lắm đâu. Có thể ta nghĩ rằng ta đã hiểu rồi nhưng không chắc ta đã hiểu, hoặc có thể ta chỉ mới hiểu được một chút thôi. Rất mong hành giả nuôi dưỡng ý thức chánh niệm, thực tập tinh chuyên và rồi một ngày nào đó sẽ có thể trực nhận sự thực này bằng kinh nghiệm sống của riêng mình chứ không phải bằng ý niệm. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng chúng ta chỉ là và chỉ có chủ thể nhận thức thôi. Chúng ta cất sẵn nó trong túi khi nào cần thì đem chủ thể nhận thức ấy ra để xử dụng. Giống như cây thước bỏ trong túi, muốn đo gì thì lấy ra đo. Nhưng sự thực thì nhận thức luôn luôn gồm cả chủ thể và đối tượng. Ví dụ như khi ta giận. Giận là một biểu hiện của tâm, biểu hiện thành hai phần: chủ thể là ta đang giận, và đối tượng giận là những nguyên nhân nào đó hoặc ai đó, bằng hành động hay bằng lời nói đã tưới tẩm những hạt giống giận đang nằm ngủ trong tàng thức ta. Chủ thể và đối tượng của cái giận phải cùng có mặt một lúc. Một nhận thức được phát khởi khi chủ thể và đối tượng biểu hiện ra. Có thể nhận thức này kéo dài trong một giây hay ngắn hơn. Và trong thời gian đó chủ thể và đối tượng đồng thời phát sinh. Có bên trái thì cũng có bên phải, cả hai đồng thời phát sinh. Không bao giờ có bên phải mà không có bên trái. Và vào phút giây kế tiếp có thể có một nhận thức khác phát sinh. Nhận thức mới này cũng gồm có hai phần chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Vì đối tượng nhận thức chuyển biến nên chủ thể nhận thức cũng chuyển biến. Nhận thức có nhiều nhiệm vụ, nhiều tác dụng, vì vậy chúng ta có thể nói một thức, hai thức, ba bốn thức, năm, sáu hay bảy tám thức. Nói thức chỉ có một cũng đúng, nói thức có hai cũng đúng, nói thức có ba cũng đúng, nói thức có tám hay chín cũng đúng. Các điều này không chống đối nhau. Ví dụ khi chúng ta nói về Thầy Nhất Hạnh: ông vừa là thầy tu vừa là nhà thơ, vừa là tác viên xã hội, vừa là người làm vườn. Nói một cũng đúng mà nói bốn cũng đúng. Những lời tuyên bố đó không chống đối nhau.
Cây sồi trước mắt
Chúng ta hãy quan sát cây sồi trước mắt. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng cây sồi hiện hữu độc lập với tâm thức ta. Cây sồi có thể là một thực tại biệt lập với tâm thức ta không, điều đó ta không thể xác quyết được. Ta lấy tâm thức mà nhận diện cây sồi. Chỉ có một điều mà ta có thể xác quyết được là cây sồi ta đang quan sát chính là đối tượng của nhận thức, nó là một phần của nhận thức. Và cây sồi đang đứng trước mắt ta thật ra đang đứng trong tâm thức ta, nó là một phần của tâm thức ta, là đối tượng của tri giác ta. Khái niệm về không gian và thời gian cũng vậy. Không gian và thời gian cũng là đối tượng của nhận thức. Nếu ta tin tưởng rằng cây sồi nọ đang đứng trong không gian và thời gian; hoàn toàn độc lập với cái biểu hiện của tâm ta thì đó chỉ là quan điểm ngây thơ của chủ trương Thực Tại Luận Tố Phác (Vulgare Realism). Ta cần phải suy ngẫm lại điều đó. Tâm thức biểu hiện thành hai phần, phần chủ thể và phần đối tượng. Nếu tin rằng phân nửa của nhận thức luôn luôn nằm trong ta, độc lập hẳn với phân nửa ở ngoài, thì ta sai lầm. Khi ăn (chủ thể) ta phải đang ăn cái gì (đối tượng). Uống là uống cái gì. Nhận thức cũng vậy. Không thể xảy ra hiện tượng ăn nếu không có gì đang bị ăn. Không thể có hiện tượng uống khi không có gì đang được uống. Người mà ta thương hay ghét cũng là đối tượng của tâm thức ta. Giống như cây sồi vậy. Người ấy không phải là một thực thể độc lập với tâm thức ta. Đối tượng của sự yêu thương của ta, tức là hình ảnh của người ta thương, cũng do ta tự vẽ ra trong tâm, một hình ảnh khác xa với thực tế của người đó. Có thể nói phần lớn cái ta thấy về người kia là biểu hiện của tâm thức ta. Cần phải sống chung, nhìn sâu thấy kỹ người đó trong ba năm hay năm năm mới thấy được rằng cái hình ảnh trước đây của người đó hoàn toàn do ta dựng lên.
Tâm, Ý và Thức
Có ba danh từ nói về tâm thức: Tâm: Citta, Ý: Manas và Thức: Vijnana/Citta Manovijnana. Có khi tâm được gọi là ý, cũng có khi được gọi là thức. Trong tam tạng kinh điển, ba chữ tâm, ý và thức, có khi cùng một nghĩa, có khi mỗi từ có một nghĩa khác nhau. Nhưng khi đi vào môn Duy Biểu thì mỗi danh từ được dùng trong một trường hợp có quy định hẳn hòi: Tâm là A lại gia, ý là Mạt-na và thức là ý thức và năm thức cảm giác. Trong Ba Mươi Bài Tụng của Thầy Thế Thân: Tâm là dị thục thức, Ý là tư lượng và Thức là liễu biệt cảnh. Về bản chất và nguồn gốc thì tâm (Citta) có tác dụng căn bản là duy trì (tàng) và làm cho chín (dị thục). Đó là các tác dụng của A-lại-gia. Về động lực làm phát hiện những nhận thức thì ta xử dụng chữ Ý hay Mạt-na. Ý âm thầm ngày đêm ôm ấp, nắm giữ một cái và cho đó là "cái ta". Về phương diện tác dụng nhận thức, tác dụng tri giác, cảm thọ, suy tư, tưởng tượng thì ta dùng chữ thức (Vijnana). Tác dụng của Thức là liễu biệt (hiểu biết, phân biệt), và có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Tóm lại, có tất cả tám tác dụng của nhận thức: tâm có một, ý có một, thức có sáu. Chúng ta nhìn cuộc đời, nhìn non sông, nhìn vũ trụ bằng thức thứ sáu tức Ý thức. Thức thứ sáu lấy thức thứ bảy làm căn cứ, làm cơ quan, cũng giống như cái thấy (nhãn thức) lấy con mắt làm căn cứ. Và Ý, tức là thức thứ bảy, lấy Tâm (thức thứ tám) làm căn cứ.
Duy Thức là Duy Tâm?
Thức là năng lượng. Có nhiều thứ năng lượng. Có những năng lượng biểu hiện ra ngoài, thấy được. Có những năng lượng chưa biểu hiện, không thấy được. Khi năng lượng biểu hiện ra cho thấy thì gọi là biểu sắc. Khi năng lượng chưa biểu hiện ra và không thấy thì gọi là vô biểu sắc. Khi một người đẩy xe ba gác thì cái xe là sắc, người đẩy xe là sắc và năng lượng (sức lực) đẩy xe cũng là sắc. Năng lượng đẩy xe có sẵn trong mình, khi chưa đẩy xe thì không nhìn thấy. Khi đẩy xe mới thấy. Giới thể của người tu tập thường được dùng để ví dụ cho vô biểu sắc. Khi vừa thọ giới (sa di, sa di ni, hay giới lớn, hay giới Tiếp Hiện) trước Hội Đồng Truyền Giới và đại chúng đông đảo thì giới tử (người thọ giới) sẽ thấy có một nguồn năng lượng mới trong mình. Nguồn năng lượng trong người mới thọ giới đó gọi là giới thể. Khi giới tử ngủ, chúng ta không thấy được nguồn năng lượng đó nhưng mà nó vẫn có đó. Nó là sắc nhưng không phải là biểu sắc mà là vô biểu sắc. Thức như vậy là một loại sắc chứ không hẳn chỉ là Tâm mà thôi. Có nhiều người nghĩ lầm rằng Thức là Tâm thì không thể là sắc và cho rằng Duy thức là Duy tâm thì rất sai. Trong Kinh Hoa Nghiêm thường hay dùng danh từ Duy tâm (Cittamatra). Sau này chỉ có những kinh như kinh Lăng Già, một kinh đại thừa, mới dùng tới danh từ Duy biểu hay Duy thức. Kinh Lăng Già nói đến tâm, ý, thức một cách rất rõ ràng. Kinh Lăng già xuất hiện sau và tiếp tục phát huy tư tưởng duy tâm và duy thức của các kinh nguyên thủy. Chúng ta phải phân biệt danh từ duy tâm ở đây với danh từ duy tâm của triết học Tây phương. Danh từ tâm trong đạo Bụt không cùng nghĩa với danh từ tâm ở ngoài đời. Như trên kia (trang 12) chúng ta đã nói tới, trong câu "Nhất thiết do tâm tạo". Hai chữ tâm tạo phải được hiểu là tâm biểu hiện. Tâm biểu hiện trong hai phần: chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức.
Tâm vương và tâm sở.
Tâm vương và tâm sở là hai danh từ căn bản, hai phần của tâm thức. Tâm (Citta) hay Tâm vương được hình dung như đất và biển. Có 8 tâm vương. Tâm sở (cetasika/caittasika) là những hiện tượng phát hiện từ tâm vương cũng như hoa trái phát hiện từ đất hay đợt sóng phát hiện từ biển. Có 51 tâm sở (cũng có khi gọi là tâm hành). Một bên là gốc, một bên là ngọn và tất cả đều phải trở về gốc. Tàng thức, Mạt-na và sáu thức đầu, phải được nhìn qua hai dạng tâm vương và tâm sở. Cái nào cũng là tâm vương, cái nào cũng là tâm sở. Tâm vương là nói tổng quát, tâm sở là nói về phần hiện tượng, phần biểu hiện. Tâm vương nói về phần căn bản, tâm sở nói về phần hành tướng. Tâm vương cũng được ví như dòng sông và tâm sở là những giọt nước trong dòng sông. Nói tóm lại tất cả những tâm hành là biểu hiện mặt trên của thức, đều là sóng. Mà sóng cũng chính là nước. Ngoài sóng thì không có nước, ngoài nước thì không có sóng. Nước là tâm vương, sóng là tâm sở, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Điều này đúng với tất cả tám thức.
Ba loại tâm sở
Trong số 51 tâm sở có những tâm sở hiền lành, tốt đẹp, lợi lạc cho sự giác ngộ giải thoát của chúng ta, gọi là tâm sở thiện. Có những tâm sở không hiền (kinh dùng chữ không hiền chứ không dùng chữ ác) gọi là tâm sở bất thiện. Có những tâm sở có khi hiền mà cũng có khi không hiền nên gọi là tâm sở bất định. Khi suy nghĩ miên man (tâm sở Tầm và Từ), càng suy nghĩ càng buồn rầu và càng cuống cuồng lên, lúc đó các tâm hành Tầm và Từ là tâm sở bất thiện, trái lại khi càng suy nghĩ càng thông suốt, phấn chấn, thấu rõ sự việc thì Tầm và Từ lúc đó tầm và từ là các tâm sở thiện.
Năm tâm sở biến hành
Có năm hiện tượng tâm lý, hiện diện trong tất cả các thức, gọi là năm tâm sở biến hành (5 universal mental formations). Năm tâm sở này có mặt trong tám thức, hoạt động nơi tàng thức, Mạt-na thức và sáu thức cảm giác. Năm tâm sở biến hành là: xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư.
Xúc (Sparsa/Phassa – contact) tức là tiếp xúc, xúc chạm giữa tâm và cảnh vật, giữa thân và cảnh vật, giữa tâm và tâm. Xúc xảy ra trong từng giây phút. Nếu không có xúc thì không có nhận thức. Nếu con mắt không tiếp xúc với tờ giấy thì sẽ không có tri giác về tờ giấy. Tri giác về tờ giấy có được là nhờ sự tiếp xúc giữa con mắt và tờ giấy. Xúc đưa ta tới các tâm sở Tác ý – Thọ, Tưởng và Tư.
Tác ý (Manaskara; Attention) tức là chú ý. Trong chữ manaskara có chữ manas (ý). Do tiếp xúc mà có sự chú ý. Đôi khi có sự tiếp xúc nhưng không có sự chú ý (Đối diện bất tương phùng).
Tại sao có sự chú ý? Gốc của sự chú ý là từ tàng thức. Trong tàng thức đã chứa sẵn những âm thanh, những hình ảnh, những ưa thích nào đó cho nên khi vừa tiếp xúc chúng ta chú ý liền lập tức. Không phải vì họa sĩ hay vì người may áo mà chúng ta quyết định mua tranh hay mua áo. Tất cả đã được an bài trong tàng thức, đã được quyết định trong tàng thức. Ta đến trước bức tranh ấy hoặc trước cái áo ấy là ta bị hấp dẫn, bị chúng "bắt". Xúc và Tác ý đưa ta tới các cảm thọ, các quan niệm. Tác ý có hai loại: hợp lý (như lý tác ý; yaniso-manaskara) hay không hợp lý (bất như lý tác ý; anyaniso-manaskara). Bên Mạc Tư Khoa có anh chàng gần bốn mươi tuổi sau khi thọ Ngũ giới đã tuyên bố: "Tôi biết mà, tôi biết từ năm mười bốn tuổi là thế nào tôi cũng gặp Thầy và tôi sẽ quy y với Thầy". Năm mười bốn tuổi làm sao mà anh ta biết trước được thế nào rồi cũng gặp Thầy Nhất Hạnh và quy y với Thầy? Đó là vì anh ta đã gặp một ông thầy mà theo ý muốn của anh là phải như thế này, như thế này…Tất cả đều đã được viết trong "sổ tàng thức" của anh. Đó là tác ý. Tác ý là bỗng nhiên chúng ta chú ý tới cái đó, và ta bị "dính" vào cái đó. Cũng như thương gia Cấp Cô Độc, chưa thấy Bụt, mới nghe danh Bụt thôi mà đã sinh tâm yêu kính. Nghe chữ Bụt mà thương quá, ông ngủ không được, mong cho mau sáng để đi gặp Bụt tại tu viện Trúc Lâm. Vì vậy, hạt giống phước đức trong mỗi chúng ta rất quan trọng. Cùng đi với một người tới Làng Mai, người đó sau ba ngày bỏ làng mà đi, còn mình thì ở lại luôn. Sự khác nhau không nằm ở Làng Mai mà nằm ở trong tàng thức của mỗi người.
Thọ (Vedana; feeling). Có ba loại cảm thọ: lạc thọ (dễ chịu), khổ thọ (khó chịu) và xả thọ (không dễ chịu cũng không khó chịu, còn gọi là trung tính). Không lúc nào mà ta không có cảm thọ.
Tưởng (Samjna; perception): Tưởng là cái thấy, cái biết, cái ý niệm, cái tri giác của mình về một việc hay một sự kiện. Do tưởng mà chúng ta nhận biết được đối tượng của tri giác của mình. Tưởng thường sai lầm vì bị Mạt-na ảnh hưởng.
Tư (Cetana; volition): Tư đây không phải là suy nghĩ. Suy nghĩ trong đạo Bụt là tầm (vitarka) và từ (vicara), hai tâm hành khác trong 51 tâm hành. Tư là sức mạnh quyết định, là động lực, là năng lượng đưa chúng ta tới hành động dứt khoát, hành động tự ý mình. Tác ý là mới chú ý thôi, nhưng tư là quyết định hẳn hòi. Đó là một thứ nghiệp. Mình biết là mình sẽ đi về hướng đó. Hướng đó có thể là tốt, có thể là xấu. Có khi biết hành động đó xấu mà ta vẫn cứ làm (tạo nghiệp), vì năng lượng Tư trong ta rất mạnh.
Thọ và Tưởng là hai tâm sở biến hành vô cùng quan trọng. Tu là phải đi theo thọ và tưởng, phải luôn luôn nhận diện thọ và tưởng. Hễ có thọ là phải tiếp xúc với thọ chứ đừng để bị nó lôi cuốn. Phải nhận diện các thọ và tưởng để thấy được bản chất và nguồn gốc của chúng ở trong tàng thức thì chúng ta mới làm chủ được chúng ta và mới chuyển hóa được. Phận sự người tu là phải theo dõi dòng sông cảm thọ hay dòng sông tri giác của mình. Tại vì tri giác thường thường là sai lầm. Cả những tri giác về mình cũng rất sai lầm. Khi chưa biết rõ mình là ai thì không thể biết rõ chiều sâu của chính mình. Phòng khách (ý thức) của mình có những gì, mình còn chưa biết rõ, huống chi cái nhà kho (tàng thức)? Nếu chúng ta hiểu được mình (thấy được phòng khách và đôi khi thấy nhà kho của bản thân) thì chúng ta sẽ chấm dứt được không biết bao nhiêu giận hờn, buồn khổ và trách móc, vì tất cả những đau khổ đều có gốc rễ trong tàng thức, trong tâm.
Nếu quý vị đến Làng Mai tu học thì quý vị phải biết rằng theo dõi dòng sông cảm thọ hay dòng sông tri giác của mình là công việc căn bản. Quý vị có thể làm vườn rất giỏi, nấu cơm rất hay, làm việc không biết mệt, làm được nhiều điều cực nhọc mà đại chúng không chịu làm. Điều đó là điều hay nhưng không phải là điều căn bản của Làng Mai. Điều căn bản là mỗi khi có thọ và tưởng thì phải tiếp xúc với thọ và tưởng. Phải lấy ngọn đèn chánh niệm để soi thọ và tưởng, để nhận diện chúng. Có chánh niệm là có tuệ. Ban đầu thì chỉ nhận diện đơn thuần tức là gọi tên chúng. "Buồn ơi, ta chào mi!"; dần dần chánh niệm lớn lên và ta sẽ thấy được bản chất của chúng và ta có thể mỉm cười được. Đó là việc chính phải làm tại Làng Mai. Vì vậy trong khi rửa nồi, rửa chén, lặt rau, nấu cơm, bửa củi, đốt lò, công việc chính của chúng ta là luôn luôn nhận diện thọ và tưởng. Thọ hay tưởng là một dòng sông trôi chảy mỗi ngày. Đừng để chúng trôi đi một mình. Đừng để chúng cuốn chúng ta đi theo.
Nếu tới Làng Mai để làm công quả thôi thì đó chỉ là tu phước mà thôi. Mà tu phước thì không đi xa được bao nhiêu. Phải tu huệ. Tu huệ là phải có chánh niệm. Chánh niệm thì soi sáng được. Hơn nữa, khi chúng ta tu huệ như vậy thì cũng có phước, mà phước này lại lớn hơn nhiều lắm (Phước đức không thể nghĩ bàn – Kinh Kim Cương). Trên con đường thực tập, ta cũng nên tập nhận diện các năng lượng nội tại (tư) có sẵn trong tâm thức, khi chúng thúc đẩy ta nói năng, hành động. Do đó, ta có thể làm chủ được mình: thân, khẩu và ý của ta sẽ không tạo thêm các nghiệp bất thiện.
Ngũ uẩn.
Đối tượng của tâm ý được gọi chung là các pháp, tức là tất cả các hiện tượng. Pháp có thể được liệt kê thành 18 giới (sáu căn-sáu trần và sáu thức), gồm cả ba phần vật lý, sinh lý và tâm lý (Tâm Kinh Bát Nhã). Pháp là đối tượng của Tâm ý nhưng cũng không phải là những hiện tượng có thể tách rời khỏi tâm ý. Vì vậy Pháp cũng là nội dung của tâm ý. Pháp cũng có thể được xếp vào 5 phạm trù gọi là Ngũ uẩn: Sắc – thọ – tưởng – hành – thức. Nền văn học A-tỳ-dạt-ma (Abhidharma) và học phái Duy Biểu trong đạo Bụt giảng dạy kỹ lưỡng tính chất và đường lối vận hành của 5 phạm trù này. Tâm kinh Bát Nhã cho biết Bồ tát Quán Thế Âm nhờ quán chiếu năm uẩn đã thấy được tự tánh Không ( đồng nghĩa với tự tánh Duyên sinh) nên vượt thoát được sinh tử.Ngũ uẩn là năm yếu tố tạo nên con người. Uẩn (skandhas) có nghĩa là yếu tố tụ tập, chứa nhóm. Ta có thể dùng hình ảnh một trái quít với năm múi để tượng trưng cho năm uẩn. Trái quít tượng trưng cho con người chúng ta.
* Sắc
Múi quít đầu tiên là sắc, tiếng Phạn là rupa (form, shape) là phần sinh lý cơ thể như tim, gan, phổi, dạ dày… mắt, tai, mũi, lưỡi, thân v..v…
* Thọ
Múi quít thứ hai là thọ (vedana – feelings) tức là các cảm thọ, cảm xúcï. Có ba loại cảm thọ: lạc thọ (dễ chịu), khổ thọ (khó chịu) và xả thọ (không dễ chịu cũng không khó chịu). Không lúc nào chúng ta không có cảm thọ. Trong một ngày chúng ta có không biết bao nhiêu là cảm thọ: chúng ta sống với một dòng sông cảm thọ. Chúng ta sẽ được học kỹ hơn về thọ sau này. Điều cần nhớ bây giờ là chúng ta phải thực tập chánh niệm về những cảm thọ của mình: sơ khởi thì biết (nhận diện) là mình đang có lạc thọ, khổ thọ hay xả thọ, sau đó khi chánh niệm vững vàng hơn chúng ta thấy được bản chất, gốc rễ, điều kiện phát sinh của các cảm thọ đó. Người tu không bao giờ ngồi đó mà chịu chết cứng với khổ thọ hay lạc thọ của mình. Người tu không thể để cho lạc thọ, khổ thọ, xả thọ kéo mình đi như "lục bình trôi riu ríu". Chánh niệm giúp chúng ta tiếp xúc sâu sắc để biết rõ gốc rễ của cảm thọ mà chuyển đổi về hướng nhẹ nhàng hơn, giải thoát hơn. Chìa khóa của sự tu học là nắm lấy cảm thọ của mình, nắm lấy vận mạng của mình, không còn là nạn nhân của những cảm thọ.
* Tưởng
Múi quít thứ ba là tưởng (samjna-cognition, perception). Chữ Tưởng ở đây không phải là tư tưởng mà có nghĩa là tri giác. Tri giác là cái thấy, cái biết của mình về một việc hay một sự kiện. Do tưởng mà chúng ta nhận biết được đối tượng của nhận thức của mình. Ví dụ chúng ta nhìn một cặp mắt kiếng và biết rằng đây là một cặp mắt kiếng. Đó là một tri giác. Chúng ta biết đây là một tờ giấy, đây là Làng Mai, đây xóm thượng chứ không phải là xóm hạ, đây là khóa tu mùa Đông. Tất cả những cái biết, cái nhận thức đó gọi là tưởng. Tưởng là một trong những tác dụng chính của thức nhưng chỉ là một phần trên mặt của thức mà thôi. Không có tri giác không có nghĩa là không có sự sống. Thường chúng ta cứ nghĩ là nếu không có tri giác, không có tưởng thì chúng ta chết rồi. Điều đó không đúng. Có những sinh vật không cần tưởng mà vẫn sống, đôi khi còn sống đỡ khổ hơn. Đó là những sinh vật gọi là vô tưởng hay phi tưởng. Có những trạng thái thiền định gọi là vô tưởng định. Vô tưởng không có nghĩa là chúng ta không có đó. Chúng ta không có nhận thức, nhưng có những cái khác. Có một cõi mà trong đó chúng ta không cần nhận thức nhưng vẫn có mặt như thường. Đó là cõi trời vô tưởng (vô tưởng thiên). Cõi trời đó không cần đi máy bay mới tới. Khi đạt tới một trạng thái thiền định nào đó thì chúng ta có thể nhập vào vô tưởng thiên, không còn thấy, không còn nghe, giống như một người mà hai mắt và hai tai bít lại. Điều đó không có nghĩa là chống lại tri giác. Chúng ta chỉ ngưng tác động của thức về tri giác. Không có tri giác nữa nhưng chúng ta có những cái khác. Khi chúng ta đi vào trạng thái thiền định chú tâm vào một cái gì thì chúng ta không còn tiếp nhận những đối tượng bên ngoài nữa, nhưng không có nghĩa là chúng ta không có mặt. Đôi khi có mặt vững chãi hơn. Trạng thái vô tưởng chưa chắc đã là yếu mềm, thiếu ý thức hơn trạng thái hữu tưởng. Thỉnh thoảng trong một đám đông, những cái thấy hay nghe làm cho chúng ta bị tán loạn và tuy rằng ta có đó nhưng không còn vững chãi, không có mặt nữa. Có nhiều người khổ quá vì những cái họ nghe, thấy. Họ nói thà rằng tôi điếc và mù đi thì tôi đỡ khổ hơn. "Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng" (Nguyễn Du). Giữa cái tưởng và thực tại luôn luôn có một khoảng cách. Phải tập chánh niệm, nhận diện, nhìn sâu, tiếp xúc tận gốc rễ từng sự kiện thì các tri giác của mình dần dần mới đến gần thực tại hơn.
* Hành
Múi quít thứ tư là Hành (samskara; mental formation). Hành có nghĩa là những hiện tượng được tập hợp do nhân duyên mà thành. Ví dụ như hoa, lá được hình thành đều do nhiều nhân duyên. Múi quít thứ tư này chỉ nói về tâm hành (citta samskara), tức là những hiện tượng tâm lý (mental formations). Thọ và tưởng cũng là những hiện tượng tâm lý. Vậy thì hành là gì? Hành hay tâm hành là tất cả các hiện tượng tâm lý khác mà không phải là thọ và tưởng. Vì phạm trù của thọ và tưởng quan trọng quá cho nên chư tổ chia chúng thành hai múi quít riêng. Vì thật ra thọ cũng là hành và tưởng cũng là hành. Trong Đạo Bụt, Duy Thức Đại Thừa nói tới 51 loại tâm hành. Thọ và tưởng là hai trong 51 tâm hành. Còn lại là 49 hiện tượng tâm lý khác cũng được gọi là 49 tâm hành.
* Thức
Múi quít thứ năm là Thức (Vijnana). Thức là tâm căn bản. Dù đối với Đạo Bụt Bộ Phái hay Đạo Bụt Đại Thừa thì múi quít thứ năm cũng có tính cách của thức căn bản. Nó có tính chất của đất. Cây tía tô, cây anh đào dù có vươn lên cao bao nhiêu đi nữa thì cuối cùng cũng rơi trở về với đất. Dầu cho chúng ta có nghe cái nầy, thấy cái kia, buồn cái nọ, vui cái kia, tất cả đều trở về với thức, dưới hình thức những hạt giống cả. Vì vậy cho nên chữ Thức ở đây là thức căn bản, là Tâm. Những hiện tượng về cảm thọ, về tri giác và 49 loại tâm hành khác đều là những biểu hiện của tâm thức, từ tâm thức mà sinh khởi và sẽ trở về, quy hướng về căn bản. Khi chúng ta vui thì chúng ta mang niềm vui ấy "về nhà". Khi đau khổ chúng ta cũng đem niềm đau ấy "về nhà": về căn bản thức. Vì vậy chúng ta phải phải cẩn thận, đừng đem về những thứ có thể tàn phá "ngôi nhà"ø của chúng ta.
Nói tóm lại, cảm thọ, tri giác và 49 loại tâm hành khác đều là những biểu hiện của tâm thức, từ thức mà sinh khởi và sẽ trở về thức (tâm căn bản). Thọ, tưởng, hành là những dòng sông phát khởi từ biển cả trở về biển cả (Biển tâm hay Tâm Hải là danh từ của Thầy Tăng Hội). Chia quít ra làm năm múi mục đích là để thực tập cho dễ chứ không phải để miêu tả một thực tại. Miêu tả thực tại thì có rất nhiều cách. Nhà họa sĩ miêu tả con cá khác với nhà sinh vật học, khác với người đầu bếp. Vấn đề ở đây không phải là miêu tả. Vấn đề ở đây là tìm hiểu để thực tập. Mỗi cách chia đều có mục đích riêng. Có khi ta không chia và nhìn trái quít một múi thôi: đó là Thức. Có khi ta chia trái quít làm hai múi: sắc và danh (nama và rupa) nghĩa là chia theo phần tâm và thân (psycho-soma). Danh ở đây không có nghĩa là tên gọi mà là phần tâm. Sắc là phần thân. Có khi ta chia trái quít làm 5 múi, múi quít đầu thuộc về sắc (soma), bốn múi quít sau (thọ, tưởng, hành, thức) thuộc về danh (psycho). Tất cả những phân tích đó là để thấy: Múi thứ nhất thuộc về phần sinh lý và bốn múi còn lại thuộc về phần tâm lý. Trong bốn múi sau, ba múi đầu (thọ, tưởng, hành) là tâm hiện khởi và múi chót là tâm căn bản, là căn bản thức. Khi nói đến năng tàng và sở tàng thì Thức (múi quít thứ năm) mới là tàng chứ thọ, tưởng, hành chỉ là những dòng sông từ thức mà hiện khởi, rồi lại trở về biển cả tàng thức. Nói tóm lại, năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) là năm dòng sông biến chuyển không ngừng. Tu tập là nhận diện và quán sát từng giọt nước của năm dòng sông ấy. Tiếp xúc với thân, với những gì xảy ra trong thân, với từng cảm thọ, sự phát sinh của mỗi cảm thọ và sự biến chuyển của cảm thọ đó, tiếp xúc từng tri giác trong tâm hành cũng như tiếp xúc với từng hiện tượng sinh lý và tâm lý (Kinh Tứ Niệm Xứ).
Phương pháp tiếp xúc
Bụt có dạy phương pháp tiếp xúc rất sâu sắc từng hiện tượng bằng cách xử dụng ba chìa khóa pháp ấn: Vô thường, Vô ngã, và Niết bàn. Khi tiếp xúc chúng ta cần phải xử dụng chánh niệm. Chánh niệm là năng lượng duy nhất mà chúng ta có thể xử dụng để tiếp xúc. Khi dùng chánh niệm để tiếp xúc thì chúng ta có thể thấy sâu hơn đối tượng nhận thức của chúng ta. Ví dụ như khi tiếp xúc lá gan bằng chánh niệm thì trước hết lá gan có thể cảm nhận được sự chú ý của chúng ta. Sâu hơn nữa, chúng ta thấy được tính vô thường của lá gan. Lá gan chuyển biến không ngừng. Lá gan hôm nay được mạnh khỏe không có nghĩa là nó sẽ mạnh khỏe hoài nếu không được chăm sóc. Đồng thời chúng ta cũng thấy được tính vô ngã của lá gan. Sự khỏe mạnh của lá gan tùy thuộc sự mạnh khỏe của nhiều yếu tố không phải là lá gan như là bộ phận tiêu hóa hoặc là thức ăn, thức uống. Khi thấy được tính vô thường và vô ngã của lá gan và thấy được những khó khăn của nó thì bắt đầu hiểu và thương rồi chăm sóc. Phương pháp này có thể dùng để tiếp xúc với các bộ phận khác trong cơ thể, cũng như tiếp xúc với cảm thọ, tri giác và của tâm hành. Vô thường và Vô ngã giúp chúng ta khám phá hiện tượng về mặt tích môn (bình diện tương đối). Tiếp xúc sâu sắc hơn nữa chúng ta sẽ tiếp xúc với niết bàn, chìa khóa pháp ấn thứ ba, nghĩa là tiếp xúc với bản môn (bình diện tuyệt đối). Từ đó, chúng ta đạt tới tình trạng nhẹ nhõm, không còn sợ hãi. Xử dụng ba chìa khóa vô thường, vô ngã và Niết bàn để mở khóa thực tại về từng tâm hành, để đạt tới cái thấy sâu sắc của từng tâm hành và từ đó sự thực tập sẽ trở nên dễ dàng. Đó là cốt tủy của thiền tập theo lời Bụt dạy.
Cách đọc và học 50 bài tụng Duy biểu
Đọc Năm Mươi Bài Tụng Duy Biểu, có thể có bài chúng ta không hiểu rõ. Điều này cũng không sao. Các bài tụng kế tiếp sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn. Một bài chứa đựng các bài khác, cho nên càng đọc càng hiểu các bài trước. Có những điều mà trí của ta chưa chấp nhận được, chúng ta phải để cho nó một cơ hội khác. Ví dụ chúng ta có một tri giác về Làng Mai. Chúng ta nghĩ rằng tri giác đó có thể chứa đựng những sai lầm là vì chúng ta chưa tiếp xúc được với Làng Mai một cách khách quan. Chúng ta tưởng tượng là có hai Làng Mai: một làng của tri giác chúng ta và một làng mà ta nghĩ là một thực tại khách quan. Chúng ta hy vọng một ngày nào đó sẽ thấy rõ được Làng Mai khách quan. Nhưng mà chúng ta không biết rằng cái làng mà chúng ta gọi là Làng Mai khách quan cũng do tâm thức cá nhân và tâm thức cộng đồng tạo ra. Tâm thức chúng ta bao gồm cả hai phần cá nhân và cộng đồng; chủ thể và đối tượng… Điều đó có thể là chúng ta chưa hiểu. Đó là điều mà từ từ chúng ta sẽ thấy khi mà chúng ta đi vào sâu trong Duy Biểu Học. Ít nhất là chúng ta hãy mở lòng ra để thấy được rõ ràng là chúng ta chưa thấy, chưa hiểu.