Cây trên suờn núi
Tiểu Huyền
Trong tu viện Bát Nhã (Bảo Lộc), ngày 3 tháng 3 năm 2007 vừa qua, khi một thiền sinh hỏi “Thưa Thầy, vì sao Đề Bà Đạt Đa, chuyên phá đức Phật, lại cũng đuợc coi là có công đức?” Thiền sư Nhất Hạnh đã trả lời, nguyên văn như sau:
“Đức Thế Tôn có nói rằng là Đề Bà Đạt Đa, nguời gây ra khó khăn cho tăng đoàn, cho đức Thề Tôn, cũng đóng góp một phần nào đó cho sự lớn mạnh của tăng đoàn và của đức Thế tôn. Nó có nghĩa là khi mình tu học mà gặp những trở ngại thì mình cũng có duyên vuợt thắng các trở ngại. Và những trở ngại đó làm cho mình lớn lên, mình học hỏi , mình vuợt thắng đuợc những khó khăn đó. Con đuờng tu luôn luôn có những trở ngại…
“Có những nguời phá phách, có những nguời bêu xấu, có những nguời nói oan cho mình. Nhưng mà nếu mình biết tu thì mình có thể vuợt thắng đuợc những cái đó và mình lớn lên. Cũng như cái cây mọc trên suờn núi. Núi toàn là đá sỏi, không có đất thịt nhiều và có mưa gió rất nhiều. Vì vậy những cái cây sống trên suờn núi nó cắm rễ rất sâu và đứng rất vững truớc mưa gió. Còn những cây mọc trên đồng bằng mà đất rất mềm thì mỗi khi có gió mạnh nó có thể ngã xuống một cách dễ dàng.
“Cho nên càng có nhiều trở ngại, càng có nhiều châm biếm, nói xấu, phá họai thì sự tu học của mình càng vững mạnh lên. Và vì vậy những kẻ phá họai, gây những khó khăn – như Đề Bà Đạt Đa trở thành một cái tăng thuợng duyên, tức là một điều kiện giúp mình lớn mạnh. Mình biết ơn nguời đó, gọi là nghịch tăng thuợng duyên. Nghịch tăng thuợng duyên là những cái trở ngại nó làm cho mình vững mạnh hơn. Thành ra trên đuờng tu mình có thể gặp những khó khăn như vậy trong gia đình, trong cha mẹ, trong huynh đệ, trong bạn bè. Có nguời ham danh ham lợi, không có tu thiệt, và gây ra những khó khăn ở trong chùa, trong chúng. Nếu mình khơng tu giỏi thì mình thối chí, mình cho đó là những trở ngại khiến mình không tu đuợc. Nhưng mà nếu mình quyết tâm thì chính những trở ngại đó giúp cho mình lớn lên, vuợt thóat, mình không đau khổ vì những cái đó. Trái lại mình lớn lên và coi thuờng những cái đó.
“Như tôi chẳng hạn, trên buớc đuờng tu của tôi, tôi gặp rất là nhiều khó khăn, nhiều chuớng ngại. Hàng triệu nguời nói tôi là nguời Cộng Sản, hàng triệu nguời nói tôi là tình báo CIA. Họ viết bài, họ nói xấu, họ nói tôi có một vợ hai con! Nhưng mà tôi không có đau khổ gì hết. Tôi tỉnh bơ! Và tôi thấy thuơng những nguời đó. Và chính những cái đó làm cho mình vững mạnh lên. Ban đầu thì mình hơi xính vính, mình hơi chán, mình hơi buồn. Nhưng mà nếu mình chết chìm trong những cái đó thì làm sao lớn lên đuợc? Cho nên những trở ngại trên đuờng tu, những trở ngại trên đuờng sự nghiệp của mình có thể giúp mình lớn lên, và thành công hơn. Do đó cho nên một hôm đức Thế Tôn đã tán thán Đề Bà Đạt Đa. Nhưng không có nghĩa là đức Thế Tôn nói tất cả quý vị đều nên chống đối, đều nên phá họai chánh pháp. Không có như vậy đâu! Những nguời chống báng chánh pháp, phá họai tăng đoàn, gây khó khăn cho nguời tu thì những nguời đó có tội. Còn mình tu thì những cái đó giúp cho mình trưởng thành mau hơn. Cái nghĩa nó là như vậy, chứ không phải đức Thế tôn khuyến khích mọi nguời đều làm như Đề Bà Đạt Đa. Không phải vậy đâu.”
Đã từ lâu, một tờ báo xuất phát từ Paris viết nhiều tin thất thiệt về thiền sư Nhất Hạnh, và nhiều người cả tin, đã loan truyền những điều mà họ không biết rõ. Họ cũng không tới Làng Mai để kiểm chứng hay đặt câu hỏi với hàng trăm đệ tử thân cận của Thiền sư. Một ký giả trong một tờ báo chợ tại Cali, đã viết tin về anh G., con rể của em gái sư cô Chân Không, loan tin đó là con trai thiền sư! May cho anh ký giả này, chàng thanh niên đó (là con một bác sĩ tại Cali) đọc bản tin bịa đặt kia quá trễ, và anh ta làm việc rất bận rộn, nên không làm thủ tục đưa ký giả vô luơng tâm đó ra tòa!
Trong một dịp tới thăm giáo sư Trần văn Khê mới đây để phỏng vấn giáo sư về cuộc sống vẫn năng động của ông tại quê nhà; chúng tôi đuợc nghe giáo sư nói chuyện về thời gian bé Minh Tâm và mẹ bé (cháu nội và con dâu của giáo sư Khê) tới ở nhờ khu cư trú tại Phương Vân Am (Font Vannes) của thầy Nhất Hạnh. Hai mẹ con tạm trú với ông thầy cả năm (thập niên 1970 – năm nào thì giáo sư đã quên!). Cùng thời gian đó cũng có cô bé Thanh Thủy gần tuổi với Minh Tâm, đuợc cha mẹ mới qua tới Pháp, đem bé gửi cho Sư Ông nuôi dạy dùm mấy tháng, để họ đi kiếm việc làm. Ông thầy thuờng dẫn hai cháu đi chơi, dạy cho hai cô bé cách nhìn kỹ con sâu, cái kiến, hòn sỏi; nhìn ly nuớc táo lắng trong v.v…(Coi trong sách Trái Tim Mặt Trời). Trong một buổi văn nghệ Phật Giáo tại Paris, sư ông đã ngồi cạnh hai cô bé thay vì ngồi chung hàng ghế với các vị khách qúy… Vậy là tin đồn “thầy Nhất Hạnh có hai con!” đuợc tờ báo kia tung ra!
Theo sự hiểu biết của giới thân cận với Làng Mai, mọi tin tức sai lạc về thiền sư hầu như đều phát xuất từ một nguời phụ tá cho ông thời xưa, sau khi anh ta bị thất sủng. Nguời đó đã đuợc ông thầy giao cho việc quản lý quỹ từ thiện do các thiện nhân quốc tế ủng hộ nhà sư, khi ông bắt đầu lưu vong sống tại Paris ((cuối thập niên 1960). Mỗi năm, ông thầy Nhất Hạnh nhận đuợc hàng trăm ngàn đô la để gửi về Việt Nam và Huế. Ông bảo trợ cho các sinh họat của truờng Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội và các dự án lập Làng Tình Thuơng, cấp học bổng cũng như nuôi hàng ngàn trẻ em đói khổ v.v…
Cuối năm 1968, cô Cao Ngọc Phuợng (tức sư cô Chân Không ngày nay) đang là giáo sư Sinh học tại đại học Huế, cũng là thành viên trong ban điều hành truờng Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội Saigon; đã từ Việt Nam qua phụ giúp thêm cho ông thầy trong công việc liên lạc với quốc tế. Cô Phuợng đã đề nghị một lối quản trị tài chánh minh bạch và số luơng “phục vụ” (ít ỏi) cho tất cả những nguời phụ giúp ông thầy. Việc xử dụng quỹ từ thiện đuợc kiểm sóat chặt chẽ hơn. Kết quả: gia đình nguời phụ tá kia lặng lẽ “từ biệt” ông thầy, mang theo tất cả hồ sơ, máy móc mà ông thầy đã tin, giao cho anh ta điều hành! Anh đó bắt đầu những “chiến dịch” bôi nhọ nguời mà anh không còn đuợc phụ tá, không còn được toàn quyền xử dụng quỹ từ thiện, từ thập niên 1970 cho tới ngày nay!
Trong khi đó, anh Thanh Hương, một nguời đuợc thiền sư Nhất Hạnh bảo trợ qua Pháp, từng sống bên cạnh “ông thầy” suốt những năm đầu thập niên 1970, trong cùng một căn phòng, đã hết lời ca tụng đời tu khổ hạnh của thiền sư Nhất Hạnh. Nguời viết cách đây vài năm, có may mắn đuợc phỏng vấn anh Thanh Huơng, nay cùng gia đình đang sinh sống tại ngọai ô Paris. Anh đã nói về thời gian đó như sau:
“Thầy Nhất Hạnh đuợc rất nhiều nguời kính nể và đuợc nhiều tổ chức cũng như cá nhân hỗ trợ để làm công tác từ thiện…Thầy và tất cả chúng tôi (gồm cô Phuợng, anh Steve, Mobi Hồ…cùng mấy nguời Pháp, nguời Mỹ mà anh đã quên tên), làm việc chung với nhau. Tôi là nguời duy nhất sống bên cạnh thầy, đuợc thầy nuôi nhưng thầy để cho tôi rất tự do, hầu như không bao giờ bắt tôi theo ý ông hết…Thầy vẫn có hạnh tu giống như bây giờ. Trong khi Thầy nhận đuợc rất nhiều tiền từ bốn phuơng gửi để hỗ trợ thầy trong các công tác xã hội tại Việt Nam. Nhưng, Thầy chỉ nhất định sống bằng luơng dạy học ít oi của một giảng viên bán thời gian trong đại học Sorbone, Paris…
“Thầy trò chúng tôi thuờng phải mua thực phẩm nuôi chim để lựa gạo, đúng hơn là lựa gạo tấm ra mà nấu cơm, vì đa phần trong đó là thóc, trấu…Mà cơm thì khơng một bữa nào đáng gọi là bữa cơm cả!…” Anh Thanh Huơng ôm mặt khóc lớn tiếng khi nghĩ tới nếp sống hàn vi của anh bên ông thầy anh thời truớc… Sau cơn xúc động, anh Thanh Huơng nói tiếp:
“Nếu phải tôi là Thầy thời đó, thì ít nhất tơi cũng tự cho phép trích ra một phần tiền nguời ta gửi tới – coi như « công tác phí » để mua thực phẩm hay mua vé xe búyt chứ tôi không thể sống quá khó khăn như thầy! Nhưng mình là học trò thì phải tu theo ông thầy thôi… Sau khi đã quen đuờng xá và ngôn ngữ, tôi mời bắt đầu kiếm việc làm để thêm chút phuơng tiện mua rau đậu…”
Theo một số học trò thân tín của thiền sư Nhất Hạnh, có lẽ lý do khiến cho ông chưa bao giờ lên tiếng cải chính những lời vu khống của một số nguời trong giới truyền thống Việt Nam – một phần có lẽ vì thiền sư đã hành xử theo đúng với bài kệ mà ông nhận đuợc từ ông thầy, là Thiền sư Thanh Quý, khi ông sắp rời Việt Nam năm 1966. Có thể bài kệ đó đã là một thứ kim chỉ nam cho ông trong suốt mấy thập niên qua.
Trước khi thiền sư Nhất Hạnh Mỹ du năm 1966, vị trụ trì chùa Từ Hiếu (là thiền sư Thanh Qúy) đã truyền đăng phó pháp, tặng một bài kệ cho nguời đệ tử lớn nhất (là thuợng tọa Trừng Quang, pháp hiệu Nhất Hạnh). Sư ông trụ trì Từ Hiếu nghĩ rằng sau mấy tháng Mỹ du, nguời học trị kế vị sẽ trở về để nối nghiệp mình. Nguyên văn bài kệ như sau:
“Nhất hướng Phùng Xuân đắc kiện hành (Đi theo một hướng sẽ đi mạnh mẽ, sẽ gặp mùa Xuân – Phùng Xuân cũng là Pháp tự của thiền sư Nhất Hạnh)
Hành đương vô niệm diệc vô tranh (Hành động mà không bị kẹt vào các ý niệm, không vuớng víu vào các tranh chấp)
Tâm đăng nhược chiếu kỳ nguyên thể (Ngọn đèn Tâm nếu tỏa chiếu được những chân lý nguyên sơ huyền diệu)
Diệu pháp đông tây khả tự thành” (Phật pháp nhiệm màu có thể thành tựu khắp trời Âu Á, Đông,Tây)
Nhiều học trò thân tín của Thiền sư Nhất Hạnh đã yêu cầu ông thầy lên tiếng để giải tỏa thị phi, hóa giải những đồn đại vô căn cứ; nhưng lần nào ông cũng chỉ khuyên họ, đại ý là: “ Đừng quan tâm tới dư luận của những nguời muốn phá phách. Nguời ta nói bậy vì không biết, không hiểu mà thôi. Cứ tu học đàng hòang đi, hành xử của thầy trò mình sẽ là câu trả lời hay nhất. Đừng mất thì giờ và năng lực cho những chuyện thị phi đó…!”
Bài kệ như những lời tiên tri, nay hầu như đã ứng nghiệm vào cuộc đời hoằng pháp của thiền sư Nhất Hạnh: Hòa bình là hướng đi duy nhất mà ông kiên trì tiến bước, dù con đuờng ông đi không có mấy đồng hành. Ông cũng không bị vuớng víu vào bất kỳ cuộc tranh chấp nào, kể cả những lần ông bị chụp mũ, vu khống hay mạ lỵ một cách mạnh mẽ và liên tục. Ngọn đèn Phật pháp thiền sư đã và còn đang tỏa sáng rực rỡ, qua phép tu tập chánh niệm đơn sơ và thích hợp với nhiều lọai nguời. Thiền sư Nhất Hạnh được cả thế giới công nhận là khuôn mặt đại diện Phật giáo đáng kính nể ngang với đức Đạt Lai Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng.
Hàng năm, vào mùa hè, thiền sư Nhất Hạnh cũng bảo trợ thành công các nhóm thanh niên Do Thái và Palestine qua Làng Mai tu học để hóa giải những hận thù truyền kiếp. Ông tin tuởng rằng họ sẽ là những hạt mầm tốt cho nền hòa bình lâu dài của Trung Đông sau này. Nguời bi quan cho rằng ông làm việc này cũng khó như vớt muối ra khỏi biển cho nuớc đỡ mặn. Nguời lạc quan lại nghĩ biết đâu khi đủ nhân duyên, các nguời trẻ có tâm hòa bình kia sẽ đủ duyên để họ chấm dứt cuộc tranh chấp đã quá lâu của hai dân tộc Do Thái- Ả Rập.
(Trích báo Thế Kỷ 21- 2007)